TUYÊN TRUYỀN PHÒNG, CHỐNG BỆNH TRÁI RẠ
- Nguyên nhân: do một loại siêu vi trùng gạy ra, thường xảy ra từ tháng giêng đến tháng năm
- Bệnh lây lan do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh: chủ yếu là đường hô hấp qua những giọt nước bọt của người bệnh, đường lây khác là thông qua tiếp xúc với những bọng nước ở người bệnh vỡ ra.
- Thời gian lây trung bình là 7-8 ngày, đó là thời gian kể từ trước khi có phát ban 24 giờ kéo dài cho đến khi các nốt đậu đóng vảy. Bệnh thường có diễn tiến lành tính, ít gây biến chứng trên người có miễn dịch bình thường
- Thời gian ủ bệnh trung bình là 13-17 ngày. Thời kỳ này không có triệu chứng.
- Thời kỳ khởi phát người bệnh sốt nhẹ, chán ăn, mệt mỏi, nhức đầu, đôi khi có đau bụng .
- Thời kỳ toàn phát đây được gọi là thời kỳ đậu mọc. Lúc này trên da xuất hiện những bọng nước kích thước tù 3-12 mm, bọng nước hình tròn hoặc hình giọt nước. Lúc đầu xuất hiện ở thân mình sau đó lan lên mặt và tứ chi, có trường hợp bọng nước xuất hiện ở nơi khác như niêm mạc miệng, kết mạc mắt, mi mắt, niêm mạc tiêu hoá, niêm mạc đường hô hấp, gây nên các triệu chứng tại các cơ quan này. Có thể ngứa làm bệnh nhân khó chịu. Khoảng 24 giờ sau thì bóng nước hoá đục. Bọng nước mọc thành nhiều đợt nên chúng ta thấy trên da có nhiều dạng xen kẻ nhau như dạng ban, bóng nước trong, dạng bọng nước đục, dạng đóng mày. Thời kỳ này người bệnh sốt nhẹ hoặc không sốt.
Sau một 7-10 ngày thường các bóng nước đóng vảy, không xuất hiện thêm các bọng nước mới, bệnh chuyển qua thời kỳ hồi phục. Tại những nơi đã xuất hiện bọng nước sẽ có giảm sắc tố da kéo dài khoãng 2 - 3 tháng sau thì phần lớn trở lại bình thường. Nhưng nếu bọng nước có nhiễm khuẩn hoặc trên nền của bệnh, da có sẵn như chàm, sạm da do nắng, vết bỏng, thì tổn thương da sẽ hồi phục chậm hơn thậm chí để lại sẹo.
- Các biến chứng có thể gặp trong bệnh thuỷ đậu: nhiễm trùng da, viêm mô tế bào, áp xe dưới da, viêm hạch ngoại biên, viêm phổi thuỷ đậu, viêm thanh quản, hội chứng Reye, viêm thận cấp, viêm não thuỷ đậu, giảm tiểu cầu, liệt thần kinh mặt.
Phụ nữ mang thai bị bệnh thuỷ đậu trong 3 tháng cuối của thai kỳ, trẻ sinh ra dễ có một số dị tật bẩm sinh như sẹo da, teo cơ, bất thường ở mắt, chậm phát triển tinh thần, co giật, thậm chí trước khi sinh 1 tuần nếu bà mẹ bị thuỷ đậu trẻ sinh ra, các cơ quan nội tạng thường bị tổn thương đặc biệt là phổi gây tử vong tới 30% các trường hợp.
- Một số dấu hiệu nặng của bệnh thuỷ đậu: Khi có một hay nhiều dấu hiệu này người bệnh cần được thăm khám, theo dõi để phát hiện và xữ lý kịp thời những biến chứng của thuỷ đậu:
• Sốt cao, sốt kéo dài,
• Bọng nước mọc nhiều, xuất huyết dưới da, xuất huyết nội tạng,
• Đau bụng, đau cơ, ho nhiều,
• Khó thở, thở nhanh, tím tái, ho ra máu, co giật, múa vờn, rung giật nhãn cầu.
- Phòng ngừa bệnh thuỷ đậu:
• Tạo miễn dịch chủ động bằng cách tiêm vaxcin thuỷ đậu.
• Phòng ngừa lây lan từ người bệnh sang người lành ít đạt được hiệu quả như mong muốn vì bệnh rất dễ lây, đồng thời lây sớm từ 24-48 giờ trước khi xuất hiện bóng nước. Tuy nhiên khi phát hiện bệnh cần cách ly người bệnh cho đến khi không còn xuất hiện bọng nước
- Dùng dung dịch Cloramin B 2% để sát khuẩn nhà, cửa mỗi ngày trong 7 ngày liên tiếp.
Lịch tiêm vắc xin phòng bệnh Thủy đậu cụ thể như sau:
– Tiêm mũi 1 cho mọi đối tượng từ 12 tháng tuổi trở lên.
– Tiêm mũi 2 nhắc lại cách mũi 1 thời gian là 6 tuần trở đi (không được tiêm 2 mũi cách nhau 4 tuần).
Lưu ý:
– Không tiêm vắc xin Thuỷ đậu cho phụ nữ đang mang thai.
– Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 đến 49 tuổi) nên tiêm vắc xin Thủy đậu trước khi mang thai 3 tháng.
Ngoài Trung tâm Y tế Dự Phòng, mọi người có thể tiêm ngừa vắc xin Thuỷ đậu tại các Đội Y tế dự phòng thuộc các Trung tâm Y tế đóng trên địa bàn các quận/huyện.
Khi trong gia đình có người bị bệnh Thủy đậu, nhằm tránh lây lan cho các thành viên trong gia đình, người bệnh cần được chăm sóc và cách ly như sau:
Đối với người bị bệnh Thủy đậu cần:
– Nằm trong phòng riêng, thoáng khí, có ánh sáng mặt trời, thời gian cách ly là khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc bắt đầu phát hiện bệnh (phát ban) cho đến khi các nốt phỏng nước khô vảy hoàn toàn (người lớn phải nghỉ làm, học sinh phải nghỉ học).
– Sử dụng các vật dụng sinh hoạt cá nhân riêng: khăn mặt, ly, chén, muỗng, đũa.
– Vệ sinh mũi họng hàng ngày bằng dung dịch nước muối sinh lý 90/00.
– Thay quần áo và tắm rửa hàng ngày bằng nước ấm trong phòng tắm.
– Nên mặc quần áo rộng, nhẹ, mỏng.
– Đối với trẻ em: nên cắt móng tay cho trẻ, giữ móng tay trẻ sạch hoặc có thể dùng bao tay vải để bọc tay trẻ nhằm tránh biến chứng nhiễm trùng da thứ phát do trẻ gãi gây trầy xước các nốt phỏng nước.
– Ăn các thức ăn mềm, lỏng, dễ tiêu, uống nhiều nước, nhất là nước hoa quả.
– Dùng dung dịch xanh Milian (xanh Methylene) để chấm lên các nốt phỏng nước đã vỡ.
– Trường hợp sốt cao, có thể dùng các thuốc hạ sốt giảm đau thông thường nhưng phải theo hướng dẫn của thầy thuốc, có thể dùng kháng sinh trong trường hợp nốt rạ bị nhiễm trùng: nốt rạ có mủ, tấy đỏ vùng da xung quanh… Tuyệt đối không được dùng thuốc Aspirin để hạ sốt.
– Nếu bệnh nhân cảm thấy: Khó chịu, lừ đừ, mệt mỏi, co giật, hôn mê hoặc có xuất huyết trên nốt rạ nên đưa đến ngay các cơ sở y tế để được theo dõi và điều trị.
Đối với người thân trong gia đình:
– Hạn chế tiếp xúc với người bệnh: Khi cần tiếp xúc thì phải đeo khẩu trang. Sau khi tiếp xúc phải rửa tay ngay bằng xà phòng. Đặc biệt những phụ nữ đang mang thai cần tuyệt đối tránh tiếp xúc với người bệnh.
– Vệ sinh phòng ở của người bệnh: Lau sàn phòng, bàn ghế, tủ giường, đồ chơi của người bệnh hàng ngày bằng nước Javel, hoặc dung dịch Cloramin B, sau đó rửa lại bằng nước sạch. Đối với những đồ vật nhỏ có thể đem phơi nắng.